Tóm tắt
Đại cương
Ý tưởng tự sát và hành vi tự gây hại không tự sát khá phổ biến ở thanh thiếu niên và có liên quan chặt chẽ với toan tự sát. Chúng tôi muốn xác định các yếu tố dự báo toan tự sát trong tương lai ở những nhóm nguy cơ cao này.
Phương pháp
Những người tham gia từ Nghiên cứu theo dõi Cha mẹ và Trẻ em Avon, một nghiên cứu thuần tập trên cộng đồng theo dõi từ lúc mới sinh ở Vương quốc Anh (UK). Mẫu nghiên cứu gồm 456 thanh thiếu niên với các ý tưởng tự sát và 569 người với các hành vi tự gây hại không tự sát tại lứa tuổi 16. Phân tích hồi quy logistic được sử dụng để xác định sự kết hợp giữa một phạm vi rộng của các yếu tố nguy cơ đã được xác định và toan tự sát trong tương lai, đánh giá ở tuổi 21.
Kết quả
38 trong số 310 đối tượng (12%) với ý tưởng tự sát và 56 trong số 380 đối tượng (12%) với các hành vi tự hủy hoại không phải tự sát đã có các hành vi tự sát lần đầu trong thời gian theo dõi đến 21 tuổi. Ở những người có ý tưởng tự sát, yếu tố dự báo mạnh nhất chuyển thành toan tự sát là các hành vi tự hủy hoại không tự sát (OR] 2·78, 95% CI 1·35–5·74; p=0·0059), sử dụng cần sa (2·61, 1·11–6·14; p=0·029), sử dụng các chất không hợp pháp khác (2·47, 1·02–5·96; p=0·045), tiếp xúc với hành vi tự gây hại (trong gia đình 2·03, 0·93–4·44, p=0·076; bạn bè 1·85, 0·93–3·69, p=0·081), và dạng nhân cách lý trí/cởi mở mức độ cao (1·62, 1·06–2·46; p=0·025). Ở những người với các hành vi tự hủy hoại không phải tự sát từ ban đầu, yếu tố dự báo mạnh nhất là sử dụng cần sa (OR 2·14, 95% CI 1·04–4·41; p=0·038), các loại chất cấm khác (2·17, 1·10–4·27; p=0·025), các vấn đề giấc ngủ (đi trong khi ngủ 1·91, 0·95–3·84, p=0·069; thiếu ngủ 1·97, 1·02–3·81, p=0·043), và dạng nhân cách hướng ngoại mức độ thấp (0·71, 0·49–1·03; p=0·068).
Hầu hết thanh thiếu niên nghĩ về tự sát hoặc có hành vi tự gây hại không gây tử vong sẽ không có hành vi tự sát trong cuộc đời. Nhiều yếu tố nguy cơ phổ biến đã biết không liên quan đến việc chuyển thành toan tự sát ở những nhóm nguy cơ cao này. Kết quả của chúng tối gợi ý việc khai thác thông tin sử dụng chất, hành vi tự hủy hoại, giấc ngủ, xu hướng nhân cách, và sự tiếp xúc với các hành vi tự gây hại nên được đánh giá, và có thể giúp các nhà lâm sàng trong việc xác định đối tượng thanh thiếu niên nào có nguy cơ toan tự sát cao nhất trong tương lai.