Mục tiêu:
Mục đích của nghiên cứu này nhằm cung cấp dữ liệu cho lựa chọn điều trị hàng đầu giữa liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) hoặc thuốc chống trầm cảm đối với những người lớn mắc rối loạn trầm cảm điển hình chưa từng được điều trị bằng cách xác định một chỉ điểm hình ảnh thần kinh khác biệt giữa sự thuyên giảm và thất bại điều trị của những can thiệp này.
Phương pháp:
Các kết quả phân tích kết hợp chức năng MRI ở trạng thái nghỉ ngơi sử dụng hình ảnh vỏ não vùng dưới trai hai bên (subcallosal cingulate cortex - SCC) được áp dụng cho 122 bệnh nhân từ nghiên cứu Prediction of Remission to Individual and Combined Treatments (PReDICT) đã hoàn thành 12 tuần điều trị ngẫu nhiên bằng CBT hoặc thuốc chống trầm cảm. Trong số 122 người tham gia, 58 người đã đạt được kết quả thuyên giảm (HAM-D ≤7 tại tuần 10 và 12), và 24 người điều trị thất bại (giảm <30% so với ban đầu ở điểm HAM-D). Phân tích sự khác biệt 2x2 bằng cách sử dụng các phép thử hoán vị trên mẫu con so sánh sự tương tác của điều trị và kết quả.
Kết quả:
Sự kết nối chức năng ở ba vùng sau đây với vỏ não vùng dưới trai (SCC) có liên quan đến kết quả của việc thuyên giảm và thất bại điều trị đối với CBT và thuốc chống trầm cảm và áp dụng các test hoán vị mẫu phụ: vỏ não trước-bên thùy trán trái, vỏ não giữa, và vùng vỏ não trước-giữa thùy trán trái. Sử dụng các tổng điểm kết hợp chức năng SCC cho ba vùng này, cho thấy tỷ lệ chung là 72% -78% đối với sự thuyên giảm và 75% -89% đối với thất bại điều trị. Tổng điểm kết nối chức năng dương tính có liên quan đến việc thuyên giảm với CBT và thất bại với thuốc, trong khi tổng điểm kết nối chức năng âm tính lại có liên quan đến việc thuyên giảm với thuốc và thất bại với CBT.
Kết luận:
Các phân nhóm trầm cảm dựa trên hình ảnh bằng cách sử dụng kết nối chức năng khi nghỉ đã xác định khả năng của thuyên giảm hoặc thất bại điều trị của một người mắc rối loạn trầm cảm điển hình với các phương pháp điều trị đầu tiên. Công cụ đánh giá sinh học này cần được khám phá trong các nghiên cứu trong tương lai thông qua các thử nghiệm tiến cứu và như một thành phần của các mô hình dự báo điều trị đa biến.