Mục tiêu:
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định liệu rằng kết hợp liệu pháp kích thích thần kinh phế vị với các phương pháp điều trị như thường lệ trong trầm cảm có tiên lượng lâu dài tốt hơn so với việc chỉ điều trị thông thường.
Phương pháp:
Nghiên cứu quan sát, tiến cứu, không ngẫu nhiên, kéo dài 5 năm được tiến hành tại 61 địa điểm tại Hoa Kỳ và bao gồm 795 bệnh nhân mắc giai đoạn trầm cảm chủ yếu (trầm cảm đơn cực hoặc lưỡng cực) kéo dài ít nhất 2 năm hoặc có ba giai đoạn trầm cảm hoặc nhiều hơn (bao gồm cả hiện tại), và những người đã thất bại với bốn biện pháp điều trị trầm cảm hoặc nhiều hơn (bao gồm cả sốc điện). Bệnh nhân có tiền sử rối loạn loạn thần hoặc rối loạn lưỡng cực đảo pha nhanh được loại trừ. Phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tiên là tỷ lệ đáp ứng, được định nghĩa sự giảm xuống ≥50% trên thang điểm đánh giá trầm cảm Montgomery-Åsberg (MADRS) tại bất kỳ lần khám nào sau khi hết liệu trình trong 5 năm nghiên cứu. Phương pháp đánh giá hiệu quả thứ hai là tỷ lệ thuyên giảm.
Kết quả:
Các bệnh nhân trầm cảm mạn tính từ vừa đến nặng ở mức ban đầu (điểm số MADRS trung bình là 29,3 [SD = 6,9] đối với nhóm điều trị như thường lệ và 33,1 [SD = 7,0] đối với nhóm kết hợp kích thích thần kinh phế vị). Kết quả cho thấy nhóm kết hợp có kết quả lâm sàng tốt hơn so với nhóm chỉ điều trị như bình thường, bao gồm tỷ lệ đáp ứng cao hơn có ý nghĩa (67,6% so với 40,9%) và tỷ lệ thuyên giảm cao hơn có ý nghĩa (thuyên giảm lần đầu, 43,3% so với 25,7%).
Một phân tích cho thấy trong số những bệnh nhân có tiền sử đáp ứng với sốc điện, những người trong nhóm kết hợp với kích thích thần kinh phế vị có có tỷ lệ đáp ứng cao hơn đáng kể so với nhóm điều trị thông thường (71,3% so với 56,9%). Sự khác biệt tương tự cũng đã được nhận thấy ở những người không đáp ứng với sốc điện (59,6% so với 34,1%).
Kết luận:
Nghiên cứu này là nghiên cứu quan sát lâu dài nhất và lớn nhất về hiệu quả điều trị trong trầm cảm kháng trị và cung cấp thêm bằng chứng cho thấy kết hợp kích thích thần kinh phế vị làm tăng cường tác dụng chống trầm cảm so với điều trị thông thường ở nhóm bệnh nhân nặng này.